Lịch sử Quảng_Đông_(phường)

Vùng đất thuộc phường Quảng Đông ngày nay, vào đầu thế kỉ 19 thuộc tổng Lưu Vệ, huyện Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia, nội trấn Thanh Hóa, đến trước năm 1945 thuộc tổng Lưu Thanh, huyện Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.[3]

Sau năm 1945, địa bàn phường thuộc các xã Phan Đình Phùng và Đinh Công Tráng, huyện Quảng Xương. Năm 1948, các xã Đinh Công Tráng và Phan Đình Phùng sáp nhập thành xã Quảng Định gồm 10 làng. Năm 1954, một phần xã Quảng Định được tách ra để lập các xã Quảng Đông và Quảng Thành, tên gọi Quảng Đông xuất hiện từ đây.[3]

Ngày 29 tháng 2 năm 2012, xã Quảng Đông được chuyển từ huyện Quảng Xương về thành phố Thanh Hóa.[4]

Ngày 9 tháng 12 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 1108/NQ-UBTVQH14 về việc thành lập các phường thuộc thành phố Thanh Hóa (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 2 năm 2021)[1]. Theo đó, thành lập phường Quảng Đông trên cơ sở toàn bộ 5,33 km² diện tích tự nhiên và 8.395 người của xã Quảng Đông.

Phân chia hành chính

Đến năm 2019, xã Quảng Đông có 3 làng[3]:

  • Làng Xích Ngọc: có từ thế kỉ 12, đến thời Lê gọi là làng Cồn; đầu thế kỉ 19 là thôn Cồn Bạc thuộc xã Vi Bạc, tổng Lưu Vệ; cuối thế kỉ 19 là thôn Ngọc Tích, xã Vĩ Bạc, tổng Lưu Thanh; thời Khải Định đổi thành thôn Xích Ngọc; sau năm 1945 thuộc xã Đinh Công Tráng.
  • Làng Chính Hảo: có từ thế kỉ 15, tên ban đầu là Kẻ Mít, từ thời Hậu Lê đến cuối thế kỉ 19 là thôn Tứ Mỹ thuộc xã An Mỹ, tổng Lưu Thanh; sau đổi thành Chính Hảo; sau năm 1945 thuộc xã Phan Đình Phùng.
  • Làng Việt Yên: có từ thế kỉ 15, tên ban đầu là Kẻ Vọt (Cồn Vọt); thời Hậu Lê gọi là làng Việt Yên; đầu thế kỉ 19 là thôn An Việt thuộc xã An Mỹ; cuối thế kỉ 19 đổi lại là thôn Việt Yên; sau năm 1945 thuộc xã Phan Đình Phùng.

Từ năm 1959, xã Quảng Đông chia thành các xóm: Đông Nghĩa, Đông Ngọc, Đông Đoài, Đông Thành, Đông Vinh, Đông Đức, Đông Quang, Đông Hưng, Đông Hòa, Đông Văn, Đông Vũ và Đông Việt[3].